NGUYÊN NHÂN GẠO VIỆT NAM XUẤT KHẨU BỊ TRẢ LẠI

Đăng ngày: 06-12-2019

Khi chúng ta xuất khẩu gạo đi các thị trường trên thế giới, đặc biệt là các thị trường khó tính, yêu cầu các chỉ tiêu về chất lượng nghiêm ngặt như Mỹ, Canada, EU,… thì đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải tìm hiểu rõ về các chỉ tiêu này để tránh trường hợp hàng đã xuất khẩu bị trả về đáng tiếc.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số lượng lô hàng xuất khẩu gạo bị trả về ngày càng tăng. Nhiều công-ten-nơ gạo thơm của Việt Nam bị đối tác trả về do không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Riêng Mỹ là thị trường gạo tiềm năng của Việt Nam, nhưng đây cũng là thị trường yêu cầu chất lượng cao, có nhiều rào cản kỹ thuật. Do đó, đã có nhiều lô hàng gạo xuất khẩu sang Mỹ bị trả về do nhiễm các dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và vi phạm các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm vượt mức giới hạn cho phép theo quy định của Mỹ. Trong đó chủ yếu là gạo thơm jasmine, gạo tấm jasmine, gạo lứt và gạo trắng chất lượng cao. Vậy làm gì để hạn chế tình trạng "gạo xuất phải hồi hương"?

I. Nguyên nhân cơ bản khiến gạo bị trả lại là gì?

Thứ nhất, do tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún của các hộ nông dân cho nên sản phẩm không đồng đều về phẩm cấp, chất lượng và bảo đảm độ an toàn thực phẩm.

Hơn nữa, để tăng sản lượng, nhiều diện tích đất trồng lúa phải quay vòng hai đến ba vụ/năm, buộc nông dân phải sử dụng nhiều phân bón để bổ sung "dinh dưỡng" cho đất. Cộng thêm tác động của thời tiết dẫn đến dịch bệnh trên cây trồng gia tăng, khiến nhà nông lại phải dùng nhiều thuốc trừ sâu để trị bệnh. Tuy nhiên, họ lại không được hướng dẫn quản lý, sử dụng thuốc trừ sâu đúng cách, dẫn đến dùng quá mức cho phép, không chỉ gây tổn hại môi trường, mà còn khiến cho chi phí sản xuất tăng, đẩy giá thành nông sản lên, trong khi năng suất lại không cao.

Thứ ba, nhiều năm nay gạo Việt Nam xuất khẩu chủ yếu vào các thị trường dễ tính về chất lượng như Trung Quốc, châu Phi... với số lượng lớn, khiến nông dân, doanh nghiệp chạy theo lượng nhiều hơn là chú ý đến chất. Còn các nước như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu đòi hỏi rất cao về chất lượng gạo sạch về chất lượng thơm, ngon, độ dẻo và hạt gạo phải đẹp đồng đều nhưng gạo Việt Nam chưa có thương hiệu, chưa thuộc loại chất lượng cao trên thị trường thế giới. Nhiều năm liền, ngành nông nghiệp loay hoay trong việc xây dựng thương hiệu cho lúa gạo, để đưa gạo Việt vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu, nhưng lại thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công thương trong việc xây dựng, quảng bá hình ảnh, khiến người tiêu dùng trên thế giới chưa biết nhiều "hạt ngọc Việt", hoặc nghi ngờ và lo ngại về an toàn thực phẩm. Vì vậy, giá trị của gạo Việt Nam bị giảm dần.

II. Phương hướng giải quyết: Nâng chất, giảm lượng

Theo TS Vũ Tuấn Anh, Viện Kinh tế Việt Nam (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), những năm qua, sản xuất lúa gạo của chúng ta mới chạy theo sản lượng và năng suất, chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng, phẩm cấp, thương hiệu sản phẩm. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn theo quy trình công nghệ hiện đại đầu tư vào nông nghiệp vẫn còn ít. Phần lớn lúa gạo là do các hộ nông dân sản xuất theo cách thức truyền thống, cho nên khó kiểm soát được chất lượng. Vì vậy, nhằm nâng cao chất lượng lúa gạo Việt Nam cần có những mức độ đạt tiêu chuẩn khác nhau để các cơ sở sản xuất và hộ gia đình nông dân tùy theo từng điều kiện cụ thể có thể áp dụng.

Theo đó, ở mức độ thấp, sản xuất vẫn theo phương thức truyền thống của các hộ nông dân, song áp dụng một số quy trình kỹ thuật nhằm sử dụng hợp lý phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc kháng sinh... để bảo đảm đạt tiêu chuẩn an toàn dư lượng hóa chất, vi sinh vật trong sản phẩm. Với mức độ cao hơn áp dụng nghiêm ngặt quy trình GAP, trong đó thực hiện các giải pháp sinh thái để bảo đảm tiêu chuẩn an toàn, song vẫn còn sử dụng một số hóa chất. Ðể có gạo sạch phục vụ xuất khẩu, đã có nhiều doanh nghiệp liên kết với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu và trồng lúa theo nhu cầu, tiêu chuẩn của nước nhập khẩu, đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, kiểm soát được giống, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hợp lý. Ðến nay đã có hàng nghìn mô hình cánh đồng lớn được hình thành ở các địa phương, với diện tích hơn 600 nghìn ha. Trong đó có một số mô hình liên kết có hiệu quả, như Tổng Công ty Giống cây trồng Thái Bình, Công ty TNHH Cường Tân, tỉnh Nam Ðịnh; HTX Tân Cường, tỉnh Ðồng Tháp; Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang,...

Tuy nhiên, bên cạnh những mô hình doanh nghiệp liên kết với nông dân sản xuất gạo sạch có thị trường ổn định, vẫn có doanh nghiệp không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng theo tiêu chuẩn VietGAP, hay GlobalGAP. Cá biệt có tình trạng chạy theo lợi ích cục bộ, ngắn hạn của cả hai bên liên kết doanh nghiệp và các hộ nông dân, dẫn đến việc tự ý phá vỡ các hợp đồng cam kết về sản xuất và cung ứng nông phẩm "sạch". Khi giá gạo trong nước cao, nông dân không bán cho doanh nghiệp xuất khẩu, ngược lại khi gạo xuất khẩu mất giá, doanh nghiệp không thu mua gạo cho nông dân.

Tiếp đến là giai đoạn "Phát triển hữu cơ bền vững, nâng cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp" theo chiến lược quốc gia vì tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn 2030. Khi đó, tư liệu sản xuất và nguyên liệu sản xuất sản phẩm hữu cơ bắt buộc phải là sản phẩm tự nhiên của hệ thống sản xuất (sản phẩm không biến đổi gen); nghiêm cấm sử dụng các hóa chất tổng hợp. Nông nghiệp hữu cơ phải xây dựng một hệ thống quản lý sản xuất tổng thể nhằm cải thiện và tăng cường sức sống của hệ sinh thái nông nghiệp.

Tăng đầu tư cho nông nghiệp cùng với đó cần có các biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ, liên tục và lâu dài về khoa học công nghệ (giống, công nghệ chế biến...) để nhà nước, doanh nghiệp và nông dân cùng quyết định chuyển đổi nền nông nghiệp lạc hậu sang phương thức sản xuất mới và trình độ sản xuất cao hơn, bền vững hơn, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường xuất khẩu. 

Cảm ơn bạn đọc đã quan tâm đến bài viết !